Kinh nghiệm xây nhà đẹp Xây nhà là một trong ba chuyện lớn của đời người Kinh nghiệm xây nhà đẹp Xây nhà là một trong ba chuyện lớn của đời người Kinh nghiệm xây nhà đẹp Xây nhà là một trong ba chuyện lớn của đời người Kinh nghiệm xây nhà đẹp Xây nhà là một trong ba chuyện lớn của đời người
Trang chủ
Dịch vụ
Lập đề cương dự án;
- Thảo luận, thống nhất với khách hàng về nội dung đề cương của dự án;
- Thu thập thông tin về dự án;
- Lập dự toán chi phí đầu tư các hạng mục;
- Tính toán chi phí hoạt động của dự án;
- Xác định nhu cầu vốn, nguồn vốn để đầu tư;
- Phân tích về thị trường tiêu thụ sản phẩm của dự án;
- Phân tích về thị trường nguyên liệu đầu vào đối với dự án;
- Đánh giá về công nghệ của dự án;
- Đánh giá sản phẩm, giá bán, nguyên liệu đầu vào, mức độ cạnh tranh...;
- Xây dựng phương án nhân sự, tổ chức quản lý dự án, tổ chức bán hàng;
- Tính toán, phân tích chi tiết hiệu quả dự án đầu tư đối với chủ đầu tư và xã hội;
- Thực hiện soạn thảo, viết chi tiết dự án đầu tư theo như đề cương;
- Thiết kế cơ sở toàn bộ dự án theo quy trình công nghệ sản xuất;
- Hoàn thiện, in và bàn giao dự án cho chủ đầu tư.
Quy trình lập dự án đầu tư chỉ là bước sau cùng trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư. Muốn lập một dự án đầu tư có chất lượng, hiệu qủa thì nhà đầu tư phải tiến hành nhiều công việc, cụ thể:
- Nghiên cứu, đánh giá thị trường đầu tư; Phân tích lựa chọn sản phẩm cụ thể phù hợp.
- Xác định thời điểm đầu tư và qui mô đầu tư; khái toán nguồn vốn đầu tư.
- Lựa chọn hình thức đầu tư; các hình thức huy động vốn.
- Tiến hành các hoạt động khảo sát và lựa chọn địa bàn, địa điểm đầu tư.
Sau khi thực hiện xong các công việc trên thì nhà đầu tư tiến hành quy trình lập dự án đầu tư. Dự án đầu tư được biểu hiện ở hai nội dung sau:
Báo cáo tiền khả thi: Đối với các dự án có quy mô lớn cần lập Báo cáo tiền khả thi là báo cáo cung cấp thông tin một cách tổng quát về dự án. Qua đó chủ đầu tư có thể đánh giá sơ bộ tính khả thi của dự án. Đồng thời lựa chọn phương án đầu tư thích hợp nhất cho dự án. Báo cáo tiền khả thi là căn cứ để xây dựng báo cáo khả thi
Báo cáo khả thi: Tập hợp các số liệu, dữ liệu phân tích, đánh giá, đề xuất chính thức về nội dung của dự án theo phương án đã được chủ đầu tư lựa chọn. Và như đã nói ở trên nó cũng là căn cứ để cơ quan có thẩm quyền thẩm tra và quyết định đầu tư
2. Nội dung của quy trình lập dự án đầu tư bao gồm :
- Định hướng đầu tư, điều kiện thuận lợi và khó khăn
- Qui mô dự án và hình thức đầu tư
- Khu vực và địa điểm đầu tư (dự kiến các nhu cầu sử dụng đất, các vấn đề ảnh hưởng môi trường, xã hội, tái định cư, nhân công .....) được phân tích, đánh giá cụ thể .
- Phân tích, đánh giá sơ bộ về thiết bị, công nghệ, kỹ thuật và điều kiện cung cấp các vật tư, nguyên vật liệu, dịch vụ, hạ tầng cơ sở ..
- Lựa chọn các phương án xây dựng công trình.
- Xác định sơ bộ tổng mức đầu tư , phương án huy động vốn, khả năng thu hồi vốn, khả năng trả nợ và thu lãi.
- Có các đánh giá về hiệu quả đầu tư về mặt kinh tế - xã hội của dự án.
- Thành phần, cơ cấu của dự án: tổng hợp hay chia nhỏ các hạng mục.
Trong trường hợp Báo cáo tiền khả thi phải được phê duyệt theo qui định của pháp luật thì sau khi đựơc phê duyệt nhà đầu tư có thể bắt tay vào xây dựng bản báo cáo chi tiết, đầy đủ theo hướng đã lựa chọn trong báo cáo tiền khả thi, đó là Báo cáo khả thi.
Báo cáo khả thi là tập hợp các số liệu, dữ liệu phân tích, đánh giá, đề xuất chính thức về nội dung của dự án theo phương án đã được chủ đầu tư lựa chọn. Và như đã nói ở trên nó cũng là căn cứ để cơ quan có thẩm quyền thẩm tra và quyết định quy trình lập dự án đầu tư.
Để các bạn hiểu rõ hơn về ngành này, xin giới thiệu qua các phần việc cơ bản của một giám sát thi công xây dựng: Nghiệm thu xác nhận khi công trình thi công bảo đảm đúng thiết kế, theo quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng và bảo đảm chất lượng. Yêu cầu nhà thầu thi công xây dựng thực hiện theo đúng hợp đồng. Từ chối nghiệm thu khi công trình không đạt yêu cầu chất lượng. Đề xuất với chủ đầu tư xây dựng công trình những bất hợp lý về thiết kế để kịp thời sửa đổi...
Và, trong mỗi công trình, phần việc của người giám sát công trình sẽ nhiều ít khác nhau. Thông thường là người giám sát các hoạt động khảo sát, thi công, tư vấn giám sát. Theo dõi tiến độ triển khai công trình. Điều tra, thu thập số liệu hiện trạng trong công tác đền bù và giải phóng mặt bằng...Một công trình thường có 2 giám sát: - Kỹ sư tư vấn giám sát (TVGS, gọi tắt là giám sát bên A): được chủ đầu tư (CĐT) thuê để tư vấn cho CĐT về tất cả những gì liên quan đến công trình xây dựng, đồng thời giám sát công tác thi công của nhà thầu xây dựng trên cơ sở bản vẻ thiết kế đã được công ty thiết kế lập. Kỹ sư TVGS chịu trách nhiệm trước CĐT và pháp luật về chất lượng của công trình.- Kỹ sư giám sát thi công (GSTC, kỹ thuật B, giám sát B): triển khai bản vẽ thiết kế ra thực địa: chỉ đạo, kiểm tra công nhân thi công theo bản vẻ, hồ sơ thiết kế, hồ sơ trúng thầu đã được CĐT phê duyệt.
Hiện nay, có nhiều tổ chức tư vấn thiết kế đăng ký hành nghề thêm lĩnh vực giám sát thi công bên cạnh chủ đầu tư. Và luật phát cũng có những quy định: Muốn được phép hành nghề giám sát thi công xây dựng công trình, tổ chức tư vấn thiết kế, ngoài những yêu cầu năng lực cho công tác thiết kế, công tác lập dự án còn phải có năng lực về giám sát công trình. Những kỹ sư trong tổ chức tư vấn thiết kế muốn được hành nghề giám sát thi công xây dựng công trình phải có trình độ đại học trở lên thuộc ngành phù hợp với lĩnh vực hành nghề xin đăng ký và đã trực tiếp tham gia thiết kế, thi công xây dựng hoặc giám sát thi công xây dựng công trình ít nhất 5 năm, đã qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ giám sát thi công xây dựng.
Chất lượng của một công trình tuỳ thuộc vào người GSTC xây dựng công trình. Người giám sát giỏi, có đạo đức thì công trình có chất lượng và ngược lại. Chính vì thế, để trở thành một GSTC công trình không là điều đơn giản. Và nếu không có đạo đức, người giám sát dễ nhắm mắt trước những bất hợp lý khi thi công.
I.Mục tiêu của kiểm định :
Kiểm định để thay đổi công năng công trình: Thực tế công trình qua sử dụng theo thời gian chúng ta đôi khi cũng cần thay đổi công năng để phù hợp với nhu cầu sử dụng hiện tại như: Chuyển từ văn phòng thành xưởng sản xuất, nhà ở thành văn phòng, nhà ở - văn phòng thành nhà hàng – khách sạn, Nâng Thêm Tầng, Cải tạo nâng tầng. Khi đó ICCI sẽ kiểm định để trả lời cho Khách hàng câu hỏi : Chuyển công năng ( hoặc nâng tầng ) có được hay không, nếu không được thì cần gia cố ở vị trí nào để được ?
Kiểm định để biết nguyên nhân sự cố công trình. Một số công trình bị sự cố như nứt, nghiêng, lún khi đang xây dựng hoặc khi đang sử dụng . Khi đó ICCI sẽ kiểm định để trà lời cho Khách hàng 02 câu hỏi Vì sao công trình có sự cố như vậy và khắc phục sự cố đó như thế nào ?
Kiểm định để giải quyết tranh chấp : Khi có sự tranh chấp giữa Chủ đầu tư và Nhà thầu về chất lượng thi công. ICCI sẽ kiểm định để trả lời cho Khách hàng câu hỏi Nhà thầu đã làm đúng với hợp đồng và tiêu chuẩn hay chưa ?
Kiểm định để thay đổi công năng công trình: Thực tế công trình qua sử dụng theo thời gian chúng ta đôi khi cũng cần thay đổi công năng để phù hợp với nhu cầu sử dụng hiện tại như: Chuyển từ văn phòng thành xưởng sản xuất, nhà ở thành văn phòng, nhà ở - văn phòng thành nhà hàng – khách sạn, Nâng Thêm Tầng, Cải tạo nâng tầng. Khi đó ICCI sẽ kiểm định để trả lời cho Khách hàng câu hỏi : Chuyển công năng ( hoặc nâng tầng ) có được hay không, nếu không được thì cần gia cố ở vị trí nào để được ?
Kiểm định để biết nguyên nhân sự cố công trình. Một số công trình bị sự cố như nứt, nghiêng, lún khi đang xây dựng hoặc khi đang sử dụng . Khi đó ICCI sẽ kiểm định để trà lời cho Khách hàng 02 câu hỏi Vì sao công trình có sự cố như vậy và khắc phục sự cố đó như thế nào ?
Kiểm định để giải quyết tranh chấp : Khi có sự tranh chấp giữa Chủ đầu tư và Nhà thầu về chất lượng thi công. ICCI sẽ kiểm định để trả lời cho Khách hàng câu hỏi Nhà thầu đã làm đúng với hợp đồng và tiêu chuẩn hay chưa ?
II.Tiêu chí thực hiện của ICCI : Kiểm định để Khách hàng biết rõ Nguyên nhân và Hiện trạng công trình một cách Nhanh & Trung Thực. (Xem tiếp...)
III.Các công tác thực hiện khi kiểm định :
1. Kiểm định chất lượng bê tông:
Kiểm định độ đồng nhất ( rỗng, rỗ) của bê tông.
Kiểm tra cường độ :
2. Kiểm tra cốt thép :
Xác định số lượng ,đường kính và lớp bảo vệ cốt thép. Theo TCXDVN 240:2000
Xác định độ ăn mòn cốt thép: TCXDVN-294-2003
3. Xác định rộng và độ sâu vết nứt:
Xác định độ rộng vết nứt bằng thiết bị phóng đại vết nứt 100
Xác định độ sâu vết nứt bê tông, theo TCXDVN 225:1998
4. Thử tại công trình:
Tiêu chẩn áp dụng : TCXDVN 363:2006 Kết cấu bê tông cốt thép - Đánh giá độ bền của các bộ phận kết cấu chịu uốn trên công trình bằng phương pháp thí nghiệm chất tải tĩnh
Nguyên lý : Chất tải lên sàn và đo độ biến dạng của các cấu kiện với độ chính xác 0.01mm
5. Xác định độ biến dảng của công trình :
Các biến dạng thường gặp : Nứt, nghiêng, lún, võng.
Tiêu chuẩn áp dụng: Tiêu chuẩn thiết kế kết cấu hiện hành ; tiểu chuẩn đánh giá độ nguy hiểm công trình TCXDVN 373:2006
III.Các công tác thực hiện khi kiểm định :
1. Kiểm định chất lượng bê tông:
Kiểm định độ đồng nhất ( rỗng, rỗ) của bê tông.
Kiểm tra cường độ :
2. Kiểm tra cốt thép :
Xác định số lượng ,đường kính và lớp bảo vệ cốt thép. Theo TCXDVN 240:2000
Xác định độ ăn mòn cốt thép: TCXDVN-294-2003
3. Xác định rộng và độ sâu vết nứt:
Xác định độ rộng vết nứt bằng thiết bị phóng đại vết nứt 100
Xác định độ sâu vết nứt bê tông, theo TCXDVN 225:1998
4. Thử tại công trình:
Tiêu chẩn áp dụng : TCXDVN 363:2006 Kết cấu bê tông cốt thép - Đánh giá độ bền của các bộ phận kết cấu chịu uốn trên công trình bằng phương pháp thí nghiệm chất tải tĩnh
Nguyên lý : Chất tải lên sàn và đo độ biến dạng của các cấu kiện với độ chính xác 0.01mm
5. Xác định độ biến dảng của công trình :
Các biến dạng thường gặp : Nứt, nghiêng, lún, võng.
Tiêu chuẩn áp dụng: Tiêu chuẩn thiết kế kết cấu hiện hành ; tiểu chuẩn đánh giá độ nguy hiểm công trình TCXDVN 373:2006
Kiến trúc được xem như một tấm gương phản chiếu đời sống cũng như trình độ phát triền của nhân loại, và nó cũng thay đổi theo từng vùng và từng thời điểm khác nhau của dòng chảy lịch sử. Trong bài viết này Designs.vn sẽ giới thiệu những hình thức liên hệ giữa kiến trúc và kết cấu trong các công trình kiến trúc xuyên suốt chiều dài lịch sử đến thời đại ngày nay.
1. Vẻ đẹp kiến trúc trên kết cấu chịu lực.
Lối kiến trúc này được phát triển ở kiến trúc phương Tây, đặc biệt vào thời Hy Lạp cổ đại, đề cao sự hợp lý về mặt kết cấu và đường lối kiến trúc được thể hiện trên chính hệ thống kết cấu đó. Công trình tiêu biểu cho lối kiến trúc vào thời gian này là đền thờ Pathenon, Athens, Hy Lạp.
2. Vẻ đẹp của kết cấu
Không giống như những công trình kiến trúc loại 1, khi hệ thống kết cấu được trang trí bằng vẻ đẹp bên ngoài, quá trình thiết kế hướng đến vẻ đẹp bên ngoài hơn là sự sáng tạo về khoa học, điều này làm cho những công trình kiến trúc loại này dưới góc độ kỹ thuật không được đánh giá cao, đây cũng là sự khác biệt giữa lối kiến trúc đầu tiên và hình thức thứ 2 - vẻ đẹp của kết cấu.
Hình thái kiến trúc "vẻ đẹp của kết cấu" cũng được chia thành 3 loại.
Loại thứ nhất mang tính "symbolically" (biểu tượng), đặc biệt thường lấy biểu tượng của công nghệ hàng không. Công trình tiêu biểu là vòm cổng chào của trụ sở Lloyds, được cấu tạo từ những cấu kiện thép cong, tạo nên những lỗ lấy sáng dựa trên cảm hứng từ cấu tạo của thân máy bay.
Loại thứ hai được gọi là “artificially created circumstances” (tạm dịch: các trường hợp nhân tạo), tạo ra thêm hệ kết cấu không cần thiết thay vì dùng hệ kết cấu khung dầm cột bình thường, như dùng hệ dầm có đầu mút thừa để giảm độ võng, và cũng chính điều này tạo nên sự khác biệt so với các công trình khác. Công trình tiêu biểu cho loại này là trung tâm Pompidou ở Pháp.
Hệ kết cấu đỡ sàn cho công trình là hệ dàn, nhưng có 2 đầu thừa gọi là “Gerberette Bracket”, phần trong liên kết khớp với cột, phần ngoài liên kết với thanh chống đứng gọi là “vertical tie rods”. Với dạng kết cấu này, do dàn có hai đầu mút thừa, nên sẽ võng ít hơn, nhưng bù lại các thanh chống đứng liên kết với các đầu mút này, sẽ truyền ứng suất kéo xuống móng, nên chi phí sẽ lớn hơn so với dạng kết cấu thông thường. Được thứ này, mất thứ khác, nhưng cũng là một phương án hay và độc đáo phải không bạn?
Loại thứ 3 cũng gần giống với dạng kết cấu thứ 2, gọi là “incompatible with structural logic”, tạm dịch là "kết cấu phản logic", nhưng điểm khác biệt ở chỗ loại kết cấu này dựa vào kiến trúc để lựa chọn phương án kết cấu. Công trình tiêu biểu cho dạng kiến trúc này là trụ sở Lloyds ở Anh.
Dễ thấy những dạng công trình này phù hợp với kiến trúc cần không gian không bị hạn chế bởi hệ thống dầm (tăng được chiều cao tầng) và có thể sử dụng để làm sảnh đón hoặc phòng triển lãm.
5. "Lờ" đi kết cấu
1. Vẻ đẹp kiến trúc trên kết cấu chịu lực.
Lối kiến trúc này được phát triển ở kiến trúc phương Tây, đặc biệt vào thời Hy Lạp cổ đại, đề cao sự hợp lý về mặt kết cấu và đường lối kiến trúc được thể hiện trên chính hệ thống kết cấu đó. Công trình tiêu biểu cho lối kiến trúc vào thời gian này là đền thờ Pathenon, Athens, Hy Lạp.
Đặc điểm nổi bật dễ nhận thấy ở lối kiến trúc này là những yêu cầu về mặt chịu lực quyết định nên hình dạng của công trình. Ở đền thờ Pathenon, hệ thống cột dầm (post-and-beam arrangement), gần giống với hệ thống khung của kết cấu hiện đại, tạo nên hệ thống chịu lực cho công trình. Đường lối kiến trúc được thể hiện trên hệ thống cột Doric với những đường cong điêu khắc, bù trừ với hiệu ứng quang học khi nhìn lên phía trên đền, tạo nên vẻ cân đối và một cái nhìn thật về nó. Tuy nhiên lối kiến trúc này đã biến mất sau đó vì người ta muốn tách kiến trúc ra với vẻ đẹp riêng thể hiện bên ngoài, và hệ thống kết cấu chịu lực chỉ thể hiện đúng vai trò của chính mình - chịu lực.
Bước sang thế kỉ XX, với sự phát triền của vật liệu xây dựng, đặc biệt là sự ra đời của thép là sự giải phóng và là bước nhảy vọt về kết cấu cũng như kiến trúc. Những công trình mang tính đặc thù mà những ý tưởng kiến trúc không thể tách bạch và được thể hiện trên kết cấu như hệ thống vòm, lối kiến trúc này đã trở lại như một điều tất yếu, tiêu biểu là trạm ga Rail Terminal ở Waterloo Station, Anh quốc, với hệ thống vòm chịu lực được cấu thành từ các đa diện.
2. Vẻ đẹp của kết cấu
Không giống như những công trình kiến trúc loại 1, khi hệ thống kết cấu được trang trí bằng vẻ đẹp bên ngoài, quá trình thiết kế hướng đến vẻ đẹp bên ngoài hơn là sự sáng tạo về khoa học, điều này làm cho những công trình kiến trúc loại này dưới góc độ kỹ thuật không được đánh giá cao, đây cũng là sự khác biệt giữa lối kiến trúc đầu tiên và hình thức thứ 2 - vẻ đẹp của kết cấu.
Hình thái kiến trúc "vẻ đẹp của kết cấu" cũng được chia thành 3 loại.
Loại thứ nhất mang tính "symbolically" (biểu tượng), đặc biệt thường lấy biểu tượng của công nghệ hàng không. Công trình tiêu biểu là vòm cổng chào của trụ sở Lloyds, được cấu tạo từ những cấu kiện thép cong, tạo nên những lỗ lấy sáng dựa trên cảm hứng từ cấu tạo của thân máy bay.
Loại thứ hai được gọi là “artificially created circumstances” (tạm dịch: các trường hợp nhân tạo), tạo ra thêm hệ kết cấu không cần thiết thay vì dùng hệ kết cấu khung dầm cột bình thường, như dùng hệ dầm có đầu mút thừa để giảm độ võng, và cũng chính điều này tạo nên sự khác biệt so với các công trình khác. Công trình tiêu biểu cho loại này là trung tâm Pompidou ở Pháp.
Hệ kết cấu đỡ sàn cho công trình là hệ dàn, nhưng có 2 đầu thừa gọi là “Gerberette Bracket”, phần trong liên kết khớp với cột, phần ngoài liên kết với thanh chống đứng gọi là “vertical tie rods”. Với dạng kết cấu này, do dàn có hai đầu mút thừa, nên sẽ võng ít hơn, nhưng bù lại các thanh chống đứng liên kết với các đầu mút này, sẽ truyền ứng suất kéo xuống móng, nên chi phí sẽ lớn hơn so với dạng kết cấu thông thường. Được thứ này, mất thứ khác, nhưng cũng là một phương án hay và độc đáo phải không bạn?
Loại thứ 3 cũng gần giống với dạng kết cấu thứ 2, gọi là “incompatible with structural logic”, tạm dịch là "kết cấu phản logic", nhưng điểm khác biệt ở chỗ loại kết cấu này dựa vào kiến trúc để lựa chọn phương án kết cấu. Công trình tiêu biểu cho dạng kiến trúc này là trụ sở Lloyds ở Anh.
Đặc trưng của công trình này là có một lõi ở giữa, cùng với đây là dạng nhà cao tầng, nên ảnh hưởng của hiện tượng xoắn do lệch tâm khi chịu tải trọng là lớn, thay vì dùng hệ thống dầm như thời bấy giờ, công trình sử dụng một hệ thống gần giống các giằng như trung tâm Pompidou với 8 cột bố trí ở lõi để giảm momen xoắn, nhưng sự khác biệt là có chịu ảnh hưởng của nhu cầu về mặt kiến trúc (không khuyến khích việc sử dụng hệ thống dầm). Về sau, hệ thống này đã được thay thế và hoàn thiện bằng vách cứng chịu lực như trong các công trình nhà cao tầng ngày nay.
Đới những công trình theo đường lối “vẻ đẹp kết cấu” này, mang những thông điệp rất rõ ràng, không phải vì những kĩ sư/kiến trúc sư thiếu khả năng, mà họ muốn đưa ra một góc nhìn khác-một góc nhìn mang đậm tính kỹ thuật, nhưng vẫn phù hợp với chức năng của công trình, và vẫn luôn đứng vững theo thời gian.
3. Sự phối hợp
Người ta thấy rằng với những dạng công trình quá thiên về mặt kỹ thuật, kiến trúc sư bị giới hạn về khả năng của mình, thì sự ra đời của lối kiến trúc thứ 3 này sẽ giúp người kiến trúc sư đưa ra ý tưởng và người kỹ sư tạo nên hệ thống chịu lực cho nó, với sự trợ giúp đắc lực của ngành công nghệ vật liệu: bê tông cốt thép và thép. Hàng loạt các công trình độc đáo đã ra đời và là biểu tượng cho nơi nó được sinh ra. Những công trình loại này thường là những nhà nhịp lớn (long-span building), những nhà cao tầng (tall building) hay những công trình nhẹ, có thể dời đi (lightweight buiding), đòi hỏi sự kết hợp và đồng bộ cực cao của kiến trúc sư và người kỹ sư kết cấu. Đây chính là trào lưu của thời đại mới.
a. Công trình nhịp lớn (Long-span Building)
Đới những công trình theo đường lối “vẻ đẹp kết cấu” này, mang những thông điệp rất rõ ràng, không phải vì những kĩ sư/kiến trúc sư thiếu khả năng, mà họ muốn đưa ra một góc nhìn khác-một góc nhìn mang đậm tính kỹ thuật, nhưng vẫn phù hợp với chức năng của công trình, và vẫn luôn đứng vững theo thời gian.
3. Sự phối hợp
Người ta thấy rằng với những dạng công trình quá thiên về mặt kỹ thuật, kiến trúc sư bị giới hạn về khả năng của mình, thì sự ra đời của lối kiến trúc thứ 3 này sẽ giúp người kiến trúc sư đưa ra ý tưởng và người kỹ sư tạo nên hệ thống chịu lực cho nó, với sự trợ giúp đắc lực của ngành công nghệ vật liệu: bê tông cốt thép và thép. Hàng loạt các công trình độc đáo đã ra đời và là biểu tượng cho nơi nó được sinh ra. Những công trình loại này thường là những nhà nhịp lớn (long-span building), những nhà cao tầng (tall building) hay những công trình nhẹ, có thể dời đi (lightweight buiding), đòi hỏi sự kết hợp và đồng bộ cực cao của kiến trúc sư và người kỹ sư kết cấu. Đây chính là trào lưu của thời đại mới.
a. Công trình nhịp lớn (Long-span Building)
Câu hỏi đầu tiên được đặt ra: thế nào là nhịp lớn? Câu trả lời đó là: những công trình có khoảng cách cột theo phương ngang lớn (thường lớn hơn 40m), nhằm hạn chế số lượng cột bên trong nhà để đảm bảo điều kiện sử dụng, và không thể sàn xuất hàng loạt và thống nhất, đó gọi là nhịp lớn. Nhà nhịp lớn chủ yếu chịu những tải trọng về mặt tự nhiên như tải trọng bản thân, tải trọng gió, động đất,… nên dạng kết cấu ngày nay được chọn thường là kết cấu dàn, vòm với thanh căng. Kết cấu nhịp lớn trước thời đại công nghiệp thường là gỗ, và do gỗ khó liên kết lại với nhau nên và cường độ không phù hợp nên kết cấu nhịp lớn ít được dùng vào thời đại này. Tuy nhiên với sự phát triển của bê tông cốt thép và thép, sự hiểu biết về khả năng làm việc hợp lý của các đa giác, nhà nhịp lớn đã có chìa khoá để phát triển. Công trình thường là các hanga máy bay, các nhà triển lãm hoặc sân vận động, các giải pháp kiến trúc sẽ giải quyết tính thẩm mỹ và đặc trưng của công trình. Ví dụ tiêu biểu là xưởng chứa máy bay Red Bull’s Austrian Wing ở Áo và sân vận động Wembley ở Anh.
b. Nhà cao tầng (Tall Building)
b. Nhà cao tầng (Tall Building)
Nếu được chọn đâu là loại công trình kiến trúc tiêu biểu của xã hội hiện đại, chắc chắn nhà cao tầng (Tall Building) sẽ đứng đầu danh sách. Nhà cao tầng ra đời để giải quyết hàng loạt các vấn đề về mặt xã hội, cũng như thể hiện khát vọng vươn lên của con người. Đặc điểm nổi bật về mặt kết cấu của nhà cao tầng là chịu tải trọng động (gió động và động đất), việc đầu tiên là người kỹ sư phải giải quyết vấn đề chịu lực và ổn định cho công trình, và kiến trúc được sinh ra cùng với kết cấu như “người anh em song sinh”, thể hiện mức độ phát triển về cả không gian và thời gian của xã hội. Một số công trình tiêu biểu là các tòa nhà như Burj Khalifa, Bitexco ở thành phố Hồ Chí Minh và Taipei ở Đài Loan.
4. Kết cấu đóng vai trò chủ đạo.
Một hình thái kết cấu mới được sinh ra, ảnh hưởng mạnh mẽ đến hình dáng, và ảnh hưởng qua lại với yếu tố kiến trúc, nhu cầu sử dụng của công trình, hệ sàn phẳng là ví dụ điển hình. Công trình đặc trưng là Văn phòng Willis Faber và Dumas ở Ipswich, Anh, 1974.
4. Kết cấu đóng vai trò chủ đạo.
Một hình thái kết cấu mới được sinh ra, ảnh hưởng mạnh mẽ đến hình dáng, và ảnh hưởng qua lại với yếu tố kiến trúc, nhu cầu sử dụng của công trình, hệ sàn phẳng là ví dụ điển hình. Công trình đặc trưng là Văn phòng Willis Faber và Dumas ở Ipswich, Anh, 1974.
Dễ thấy những dạng công trình này phù hợp với kiến trúc cần không gian không bị hạn chế bởi hệ thống dầm (tăng được chiều cao tầng) và có thể sử dụng để làm sảnh đón hoặc phòng triển lãm.
5. "Lờ" đi kết cấu
Bạn hãy hình dung một công trình không tính đến kết cấu thậm chí ngay từ khi ý tưởng còn manh nha, sự sáng tạo của kiến trúc sư được đẩy lên đến mức cao nhất, mà không bị giới hạn bởi vật liệu hay tính toán kết cấu truyền thống. Những dạng công trình này thường mang tính đặc trưng và thẩm mỹ với hình dáng đặc biệt, ở một khía cạnh nào đó, đặc biệt hơn tất cả những dạng công trình kiến trúc còn lại. Công trình tiêu biểu cho dạng này là công trình biểu tượng cho Sydney và cho cả nước Úc - nhà hát Opera Sydney.
Được thiết kế bởi kiến trúc sư Utzon, lấy ý tưởng từ cánh buồm no gió ra khơi, “Công trình này thật táo bạo và là một sự thử nghiệm có tầm nhìn rộng lớn đã có ảnh hưởng lâu dài trên các lối kiến trúc cuối thế kỷ 20. Kiến trúc của tòa nhà là một di tích và là một hình tượng nghệ thuật độc đáo”, đó là nhận xét của UNESCO dành tặng cho nhà hát Opera Sydney, đã nói lên tất cả giá trị của công trình này, với hệ móng gồm 580 cột bê tông đóng sâu 25m dưới mực nước biển, nhà hát được lợp bằng hàng viên ngói sản xuất tại Thụy Điển, có khả năng tự làm sạch bề mặt và được thiết kế để gió biển có thể thổi vào bên trong giúp điều hòa nhiệt độ một cách tự nhiên, chỉ càng khẳng định khả năng không giới hạn của con người.
Trên thế giới còn rất nhiều công trình nổi tiếng khác, mà trong giới hạn khuôn khổ bài viết, chưa thể đề cập tới. Nhưng dù đôi khi đôi bên vẫn có mâu thuẫn và xung đột, thì ở công trình nào loại hình kiến trúc nào đi nữa, sự phối hợp giữa vẻ đẹp nghệ thuật và sự chắc chắn về mặt kết cấu là không thể tách rời, để cái đẹp không mong manh và bền vững theo thời gian.
Được thiết kế bởi kiến trúc sư Utzon, lấy ý tưởng từ cánh buồm no gió ra khơi, “Công trình này thật táo bạo và là một sự thử nghiệm có tầm nhìn rộng lớn đã có ảnh hưởng lâu dài trên các lối kiến trúc cuối thế kỷ 20. Kiến trúc của tòa nhà là một di tích và là một hình tượng nghệ thuật độc đáo”, đó là nhận xét của UNESCO dành tặng cho nhà hát Opera Sydney, đã nói lên tất cả giá trị của công trình này, với hệ móng gồm 580 cột bê tông đóng sâu 25m dưới mực nước biển, nhà hát được lợp bằng hàng viên ngói sản xuất tại Thụy Điển, có khả năng tự làm sạch bề mặt và được thiết kế để gió biển có thể thổi vào bên trong giúp điều hòa nhiệt độ một cách tự nhiên, chỉ càng khẳng định khả năng không giới hạn của con người.
Trên thế giới còn rất nhiều công trình nổi tiếng khác, mà trong giới hạn khuôn khổ bài viết, chưa thể đề cập tới. Nhưng dù đôi khi đôi bên vẫn có mâu thuẫn và xung đột, thì ở công trình nào loại hình kiến trúc nào đi nữa, sự phối hợp giữa vẻ đẹp nghệ thuật và sự chắc chắn về mặt kết cấu là không thể tách rời, để cái đẹp không mong manh và bền vững theo thời gian.